Một số vấn đề cơ bản về quan điểm, chủ trương và tình hình ứng dụng công nghệ tự động hoá của thành phố Hải Phòng
15/10/2012
630 Lượt xem
1. Khái nịêm, vị trí, vai trò của công nghệ tự động hoá trong sự phát triển kinh tế - xã hội các quốc gia:
Công nghệ Tự động hóa được hiểu là tập hợp các phương pháp và kỹ thuật tiên tiến nhằm tạo ra các thiết bị, hệ thống thiết bị và quá trình sản xuất được điều khiển tự động để thay thế hoặc giảm nhẹ lao động trực tiếp của con người, đồng thời nâng cao năng suất lao động, chất lượng của sản phẩm và hiệu quả hoạt động của con người trong các loại hình công việc khác nhau.
Cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, công nghệ tự động xâm nhập và được ứng dụng mạnh mẽ vào tất cả lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, có vai trò to lớn trong việc phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Ngày nay, hầu như trong bất cứ ngành kinh tế kỹ thuật nào nhất là các ngành công nghiệp, ở đâu cũng áp dụng công nghệ tự động hoá và vì thế đã làm thay đổi diện mạo nhiều ngành sản xuất, dịch vụ. Đã xuất hiện những nhà máy không có người, văn phòng không có giấy, cuộc chiến không có lính, rồi đến những thuật ngữ máy thông minh, thiết bị thông minh v.v.
Tự động hoá có mặt từ khâu thiết kế đến khâu đóng gói sản phẩm trong dây chuyền sản xuất.
Công nghệ tự động hoá là một lĩnh vực công nghệ hiện đại và tổ hợp của nhiều ngành, lĩnh vực khoa học và công nghệ hiện đại như điều khiển học, điện tử - tin học, cơ - điện tử, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, v.v... Do đó, cơ cấu nhân lực trong lĩnh vực công nghệ tự động hoá cũng hết sức đa dạng ở nhiều lĩnh vực liên ngành và chuyên ngành, trong đó có 3 nhóm nhân lực khoa học và công nghệ chủ yếu sau:
- Các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học cơ bản có liên quan trực tiếp như: Toán học, cơ học, tin học, vật lý, tâm lý lao động,v.v...
- Các chuyên gia trong các lĩnh vực công nghệ chuyên ngành hoặc diện rộng như: Cơ khí chế tạo máy, năng lượng, dầu khí, CNTT v.v...
- Các chuyên gia chuyên ngành CNTĐH.
Việc ứng dụng hợp lý và có chọn lọc các công cụ, thiết bị, hệ thống tự động hóa vào sản xuất mang lại những lợi ích sau đây:
- Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm.
- Tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu.
- Nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất.
- Hạ giá thành sản phẩm.
- Mở ra khả năng đa dạng hóa sản phẩm và linh hoạt hóa nền sản xuất.
- Cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động, giải phóng con người khỏi những công việc độc hại, nguy hiểm hoặc nhàm chán mỏi mệt trong quá trình sản xuất.
- Nâng cao trình độ văn minh trong sản xuất và quản lý, góp phần nâng cao dân trí và văn minh xã hội.
- Có vai trò tích cực trong bảo vệ môi sinh.
Để ứng dụng công nghệ tự động hoá, các quốc gia phải chuẩn bị và phát triển tốt các yếu tố, các điều kiện liên quan:
- Nguồn nhân lực tự động hóa
- Cơ sở vật chất, thiết bị máy móc, nhà xưởng
- Công tác nghiên cứu triển khai, ứng dụng, chuyển giao công nghệ ...
- Hệ thống chính sách, cơ chế, định hướng, quy hoạch có liên quan 2. Quan điểm, chủ trương của thành phố Hải Phòng trong việc ứng dụng và phát triển công nghệ tự động hoá:
Trước đây, thành phố Hải Phòng chưa có sự quan tâm xứng đáng đến việc ứng dụng công nghệ tự động hoá trong phát triển kinh tế - xã hội thành phố. Quan điểm, chủ trương của Lãnh đạo thành phố trong việc ứng dụng và phát triển công nghệ tự động hoá chưa được thể hiện rõ nét và có định hướng phát triển lâu dài. Việc ứng dụng công nghệ tự động hoá gần như là công việc của các doanh nghiệp, Thành phố chưa có cơ chế chính sách hỗ trợ kịp thời.
Quan điểm của thành phố Hải Phòng trong việc ứng dụng và phát triển công nghệ tự động hoá đã có sự thay đổi. Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ thành phố Hải Phòng đến năm 2010, tầm nhìn 2020 đã xác định mục tiêu ứng dụng công nghệ tự động hoá trong một số ngành kinh tế trọng yếu cuả thành phố ngang mức phát triển khá trong khu vực, tập trung vào 3 nhóm lĩnh vực chính: * Ứng dụng công nghệ tự động hoá trong thiết kế: Tự động thiết kế trong các ngành kinh tế nhờ trợ giúp của máy tính (CAD):
+ Hoàn toàn thiết kế tự động trong các ngành dệt, may, da giày xuất khẩu.
+ Tự động thiết kế các máy công cụ, các dụng cụ cơ khí và các chi tiết cơ khí chủ yếu.
+ Trong ngành đóng tàu, công nghệ CAD được ứng dụng rộng rãi trong tạo dáng, thiết kế vỏ tàu và hoàn toàn tự động hoá thiết kế cho loại tàu dưới 10.000 tấn.
+ Sử dụng các chương trình tự động hoá thiết kế và tính toán trong thiết kế cơ khí, xây dựng công trình, xây dựng giao thông. * Ứng dụng công nghệ tự động hoá trong các quá trình công tác
+ Lắp ráp, bảo trì bảo hành các hệ thống SCADA (hệ thống điều khiển giám sát và xử lý số liệu) trong các ngành năng lượng, chế biến thực phẩm, nuôi trồng thuỷ sản, bảo vệ môi trường, xăng dầu.
+ Đẩy mạnh áp dụng công nghệ CNC các máy công cụ, thiết bị công tác.
+ Nghiên cứu ứng dụng và phát triển kỹ thuật rô bốt, ưu tiên áp dụng trong một số ngành có các công đoạn sản xuất nguy hiểm cho con người như sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất và một số ngành về sản xuất độc hại về môi trường.
+ Đẩy mạnh áp dụng công nghệ PLC (bộ điều khiển tự động: Programmable Logic Controllers PLCs) điều khiển tự động các máy công tác và hệ thống chấp hành.
* Tự động hoá đo lường và xử lý thông tin các quá trình công nghệ:
+ Các hệ thống đo lường công nghiệp, bảo vệ môi trường và xử lý thông tin phải tự động hoá đến 80%.
+ Đẩy mạnh tự động hoá các thiết bị đo lường, ngư khí cụ hàng hải, thuỷ sản, các chủng loại cân điện tử hiện số và truyền số liệu, công tơ thẻ, máy dò cá ...
Để cụ thể hoá những quan điểm về ứng dụng công nghệ tự động hoá được thể hiện trong Chiến lược, tại Quyết định số 2941/QĐ-UB ngày 20/12/2005 của Uỷ ban Nhân dân thành phố Hải Phòng Về việc phê duyệt Danh mục các nhiệm vụ triển khai Chiến lược Phát triển Khoa học và Công nghệ Thành phố Hải Phòng đến năm 2010 và 2020, việc xây dựng đề án “ Ứng dụng và phát triển công nghệ tự động hóa thành phố Hải Phòng đến năm 2010, định hướng đến năm 2010” là một nhiệm vụ hết sức cần thiết. Điều đó chứng tỏ sự quan tâm của Thành phố đến ứng dụng và phát triển công nghệ tự động hóa như một nhiệm vụ quan trọng, với định hướng rõ ràng, lâu dài và những mục tiêu cụ thể. Đồng thời Thành phố cũng có những biện pháp hỗ trợ kịp thời nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp, cụ thể :
- Hướng dẫn hỗ trợ xây dựng Hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Hỗ trợ chi phí tư vấn xây dựng Hợp đồng chuyển giao công nghệ.
- Hỗ trợ đơn chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ tại Sở Khoa học và Công nghệ: Năm 2005- 2010: 5 triệu đồng/1 đơn; Đơn đề nghị thẩm định và được phê duyệt Hợp đồng CGCN tại Bộ KHCN: 10 triệu đồng/1 đơn; Từ Năm 2011 đăng ký tại Sở KH&CN: 50 % giá trị tư vấn lập Hợp đồng CGCN nhưng không quá 10 triệu đồng/1 đơn (Quyết định số 635/QĐ-UBND ngày 27/4/2011 của UBND Tp về phê duyệt chương trình hỗ trợ các hoạt động KH&CN phục vụ hội nhập giai đoạn 2011-2015)
- Đơn vị có công nghệ nội sinh, có tính sáng tạo sẽ được hỗ trợ đánh giá, hoàn thiện, bảo hộ bí quyết công nghệ ... tuỳ theo các nội dung có liên quan của dự án đang triển khai tại đơn vị.
- Sau các hình thức hỗ trợ trên, nếu doanh nghiệp tiếp tục có dự án đầu tư thiết bị máy móc, dựa trên công nghệ đã được khẳng định, đánh giá để sản xuất sản phẩm ở quy mô công nghiệp sẽ được tạo điều kiện về thủ tục đề nghị thành phố hỗ trợ một phần kinh phí ngân sách. 3. Hoạt động quản lý, ứng dụng và chuyển giao công nghệ: Tổng hợp các dự án đầu tư và quy hoach phát triển từ năm 2004 đến 9/2012:
+ Từ năm 2004 đến 9/2012 Sở KH&CN đã tham gia thẩm định các dự án đầu tư và quy hoạch phát triển thuộc trách nhiệm của Sở với tổng số: 272 DA (Dự án đầu tư: 220, Quy hoạch phát triển KTXH: 42). Trình độ công nghệ và công nghệ tự động hoá của Hải phòng a-Về trình độ công nghệ nói chung
Hải phòng là một thành phố công nghiệp truyền thống, tập trung nhiều ngành sản xuất mũi nhọn như công nghiệp đóng mới và sửa chữa tầu biển, công nghiệp sản xuất thép, hoá chất, chế tạo máy… Kết quả điều tra từ năm 2000 cho thấy một số chỉ tiêu chủ yếu sau đây :
- Tuổi trung bình của thiết bị: 10,62 năm .
- Hệ số đổi mới thiết bị: 31,29% (bình quân 6% /năm )
- Tỷ trọng thiết bị trực tiếp tham gia sản xuất: 92,43% (tăng 1,1lần so với 1995)
- Mức huy động công suất thiết bị: 73,49% ( tăng 1,5 lần so với năm 1995)
- Tỷ trọng thiết bị hiện đại: 36,96%
- Mức trang bị năng lượng cho 1lao động: 20,93 Kwh/người (tăng3lần so với 1995)
- Mức trang bị vốn cho sản xuất: 628.304 ngànđ/người ((tăng 12 lần so với 1995)
- Tỷ lệ chi phí năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm : 18,28%
- Tỷ lệ chi phí nguyên liệu cho 1 đơn vị sản phẩm : 71,92% Năm 2005, với Đề án: “Điều tra đánh giá hiện trạng, xây dung định hướng chiến lược và xây dung cơ sở dữ liệu về năng lực công nghệ trên địa bàn Hải Phòng”, Kết quả cho thấy: Với 400 doanh nghiệp thuộc 16 nhóm ngành được khảo sát, Chỉ số T (thành phần kỹ thuật) là 1 trong 4 thành tố quan trọng đánh giá trình độ công nghệ. Giá trị chỉ số này phụ thuộc vào các yếu tố: tính đồng bộ, xuất xứ công nghệ, năm sản xuất, cấp độ tinh xảo của dây chuyền, hệ số hao mòn của thiết bị. Chỉ số này đạt 0,7559 là chỉ số khá cao. Có những doanh nghiệp (Công ty thông tin điện tử hàng hải) đạt T=0,9832; Công ty Fuji Mold Việt Nam đạt T=0,9708; ngành sản xuất thép, luyện kim T= 0,8060; ngành thương mại dịch vụ T=0,3933.
Tuy nhiên, trình độ công nghệ còn thấp, tỷ trọng thiết bị hiện đại chưa cao, chi phí nguyên vật liệu và năng lượng trong sản phẩm còn cao (đến 90%). Nhiều lĩnh vực công nghệ đã được đổi mới bằng nhiều phương thức và quy mô khác nhau, nhưng những đổi mới này chưa cơ bản, tự phát, chưa dựa trên những luận cứ mang tính chiến lược, chất lượng đổi mới chưa cao, hiệu quả của quá trình đổi mới còn thấp, một số doanh nghiệp bị thua lỗ.
Việc nhập các thiết bị, công nghệ lạc hậu, không đồng bộ, kém hiệu quả đã làm ảnh hưởng xấu đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và môi trường sinh thái.
b. Về công nghệ tự động hoá:
Để nâng cao năng lực sản xuất, bảo đảm chất lượng hàng hoá, nâng cao khả năng cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư, mua sắm bổ sung hoặc đồng bộ các dây chuyền, thiết bị hiện đại, có mức độ tự động hoá ngày càng cao như:
- Công ty điện tử Hải phòng đã đầu tư mua mới 01 dây chuyền tự động đồng bộ, kèm theo nhiều thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng các sản phẩm điện tử. Đây là dây chuyền sản xuất tương đối hiện đại, điều khiển tự động bằng PLC của Nhật Bản, các thiết bị phục vụ sản xuất mang tính tự động hoá cao.
- Nhà máy nhựa Tiền phong có Dây chuyền sản xuất bao bì PP sử dụng các thiết bị có điều khiển tự động bằng PLC của Cộng hoà liên bang Đức. Dây chuyền tương đối đồng bộ, khép kín từ khâu nguyên liệu, kéo sợi, dệt mành, in ấn, hoàn chỉnh, đóng gói sản phẩm. Toàn bộ dây chuyền được điều khiển bằng tủ điều khiển tự động sử dụng mạch điện tử của hãng Siemen; Hoặc Dây chuyền sản xuất ông nhựa chịu lực cỡ lớn (Þ1.000 - Þ1.200) cũng có những hệ thống điều khiển tự động hiện đại.
- Dây chuyền sản xuất túi màng mỏng PE của công ty Bao bì Hải phòng, gồm hệ thống thiết bị đồng bộ, khép kín tương đối hiện đại, sử dụng PLC của Nhật Bản .
- Hệ thống bốc xếp container Cảng Hải Phòng tự động điều khiển bằng sử dụng các PLC của Nhật Bản.
Ngoài ra các công ty liên doanh, còn có các nhà máy trong các KCN NOMURA; KCN Đình Vũ (DAP-VINCHEM, Nhà máy SX Xơ sợi....); Các nhà máy công nghiệp chế tạo tàu thủy, công ty Xi măng Hải Phòng, công ty xi măng Chinfon, các trạm trộn bê tông, DNTN Gia Khánh (chế tạo khuôn mẫu) và nhiều nhà máy khác trên địa bàn thành phố đã sử sụng máy móc thiết bị có tính năng tự động hoá cao, làm việc theo chương trình lập sẵn…
Có thể nhận thấy hệ thống máy móc, thiết bị, dây chuyền mà các doanh nghiệp hiện sử dụng trong sản xuất kinh doanh có nhiều nguồn gốc nhập khẩu khác nhau, nhưng hầu hết các thiết bị tự động được sản xuất từ các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Cộng hoà liên bang Đức, Mỹ, Thuỵ Điển, khối EU...
Có nhiều thiết bị trước đây vận hành bằng tay, nay được tự động hoá một phần hoặc hoàn toàn. Như vậy mở ra hướng đi là chúng ta có khả năng sử dụng các linh kiện mới nhất để nghiên cứu cải tiến, tự động hoá một số thiết bị máy móc, nhất là tự động hoá trong thao tác đo lường. *Điểm hạn chế:
Trừ một số dây chuyền thiết bị mới được nhập khẩu để bổ sung hoặc mở rộng sản xuất, còn lại rất nhiều thiết bị đã cũ, thậm chí có dây chuyền nhập năm 1995 nhưng thiết bị lại sử dụng các phần tử điều khiển lạc hậu, linh kiện rời rạc, mức độ tổ hợp thấp trong hệ thống.
Tình hình khai thác, sử dụng các thiết bị, dây chuyền tự động ở nhiều doanh nghiệp chưa hết công suất. Có nhiều hệ thống, thiết bị không sử dụng hết tính năng ưu việt được thiết kế .
Công tác bảo trì còn nhiều khiếm khuyết, việc sử dụng còn chưa tuân thủ các quy định vận hành, do vậy hệ thống tự động ở nhiều thiết bị bị tê liệt, hoàn toàn vận hành theo nguyên lý Manual, điều khiển bằng tay, thậm chí bỏ qua một số thao tác an toàn thiết bị mà nhà sản xuất yêu cầu , từ đó dẫn đến chất lượng sản phẩm không ổn định, năng suất thấp không bảo đản an toàn cho người và thiết bị .
Nhân lực khoa học & công nghệ chuyên ngành tự động hoá còn quá mỏng và phân tán, trình độ không cao. Số đông cán bộ làm tự động hoá là được đào tạo từ các ngành khác như chế tạo máy, điện tự động, điện tử …kết hợp tự động hoá .
Mặc dù vậy, đang dần hình thành và phát triển đội ngũ cán bộ, công nhân có khả năng sử dụng, ứng dụng và thay thế, sửa chữa các thiết bị trong các dây chuyền tự động hiện đại trên địa bàn thành phố.
Tổng hợp tình hình xác nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ: Năm 2005-2006:
Chứng nhận đăng ký Hợp đồng chuyển giao công nghệ cho 05 hợp đồng của 04 doanh nghiệp, cụ thể là:
1. Công ty Trách nhiệm hữu hạnÔ tô Hoa Mai: (Cầu Vàng II, Huyện An Lão)
2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Hoàng Huy (số 324 Tô Hiệu, Lê Chân
3. Công ty TNHH ôtô BENDE -Việt Nam (thuộc tổng công ty Thuỷ sản Hạ Long)
4. Công ty cổ phần Thương mại, Dịch vụ và Kho vận Hải Phòng.(số 4 Trần Phú) (2006)
Tất cả các hợp đồng trên đều là sản xuất và lắp ráp các laọi xe ôtô (xe tải nhẹ tự đổ, xe du lịch 7 chỗ, xe đông lạnh...) nhận chuyển giao công nghệ từ Trung Quốc.
Năm 2008-2012:
5. Công ty cổ phần Thương mại, Dịch vụ và Kho vận Hải Phòng (SX lắp ráp lần 2)
6. Công ty Trách nhiệm hữu hạnÔ tô Hoa Mai (lắp ráp động cơ Diezel ô tô/ lần 2)
7. CN phần mềm thiết chế tạo tàu thủy của công ty Lisemco
8. CNphần mềm thiết chế tạo tàu thủy của công ty Lisemco (lần 2)
9. CN sx plyeste nóng chảy hóa (dầu và xơ sợi) của CP hóa dầu và xơ sợi dầu khí.
10. CN Sx Sơn tàu biển của công ty CP Sơn HP
11. Sx Vôi chất lương cao công ty CP Quố tê Đức Hòa
12. CN xử lý rác thải pp ướt công ty CP Hà Vũ
13. SX Gạch không nung công ty CP trát triển XD Dưỡng Động
Những tồn tại, bất cập và nguyên nhân:
Một trong những nguyên nhân số hợp đồng đăng ký còn khiêm tốn là do Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02 /2005phân cấp cho địa phương chỉ được cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào VN có giá trị nhỏ hơn 1 tỷ VNĐ, những hợp đồng có giá trị lớn hơn 1 tỷ VNĐ đã đăng ký tại Bộ KH& CN và chưa được tổng hợp tại địa phương.
Mặc khác, Nghị định số 133/2008/NĐ-CPngày 31/12/2008 của Chính phủquy định chi tiết vàhướng dẫn thi hành một số điều của LuậtChuyển giao công nghệ, nhiều chủ đầu tư, khi lập Thuyết minh dự án đầu tư đã không tách riêng phần kinh phí đầu tư cho công nghệ thiết bị và kinh phí hợp đồng chuyển giao công nghệ (nếu có) theo quy định của Luật, nên hàng năm việc theo dõi, thẩm định, thông kê các số liệu này không được cập nhật. Quy định, đăng ký hợp đồng chuyển giao công nghệ không bắt buộc; Cơ chế ưu đãi sau đăng ký không cụ thể.
Nhìn chung tình hình đầu tư đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố không nằm ngoài tỡnh trạng chung của cả nước. Số doanh nghiệp chủ động đổi mới công nghệ, hiện đại hoá dây chuyền máy móc, thiết bị sản xuất chưa nhiều, số dự án đầu tư có liên quan đến các dây chuyền công nghệ tạo ra sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao còn ít. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn thành phố dành cho đổi mới công nghệ còn chiếm tỷ lệ nhỏ bé so với tổng vốn đầu tư phát triển chung của thành phố. Các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung còn lúng túng trong nghiên cứu - phát triển sản phẩm, công nghệ. Tỷ lệ sản xuất bán thành phẩm và gia công trong sản xuất công nghiệp còn cao. Tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu có hàm lượng công nghệ cao và giá trị gia tăng lớn, vì vậy còn thấp nhiều so với yêu cầu. Một số lĩnh vực sản xuất quan trọng chưa có những dự án đầu tư trọng tâm như các lĩnh vực cơ khí chế tạo; sản xuất nguyên phụ liệu cho dệt may, da giày, đóng tàu; các dự án đầu tư sản xuất thuộc lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật cao như công nghệ thông tin - viễn thông, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá.
4. Về cảnh báo trong nhập khẩu công nghệ và thiết bị nói chung và công nghệ tự động hoá nói riêng
- Trong thời gian qua, một số ngành đã ồ ạt đầu tư như: Ngành thép có từ 3-4 dự án/ 1năm, trong đó hầu hết các dự án, nhà đầu tư chọn thiết bị của Trung Quốc có quy mô nhỏ để giảm vốn đầu tư, dẫn đến hậu quả là Hải Phòng đã nhận được những công nghệ không tiên tiến và gánh chịu ô nhiễm môi trường (đặc biệt vụ ô nhiễm trường học gây ngất học sinh ở Quán Toan năm 2010 do các DN sản suất thép).
- Cần lưu ý, Mỹ và EU là các thị trường xa, nhưng lại là thị trường mà hàng nhập khẩu có công nghệ nguồn công nghệ cao, có tác dụng lớn để đổi mới kỹ thuật và công nghệ cho chúng ta. Trong khi đó, với khu vực ASEAN và châu Á lại là thị trường gần, việc mở cửa thị trường này là khá sớm, là khu vực có yêu cầu số lượng, chất lượng, thị hiếu tương đối tương đồng, gần như không có rào cản kiểu như hạn ngạch hay bán phá giá như một số thị trường khác. Nhưng kỹ thuật, công nghệ ở thị trường này chưa phải công nghệ nguồn; trong một số trường hợp còn là những hàng hoá, thiết bị không tiêu thụ được ở các thị trường khác do trình độ công nghệ, do lạc hậu, do dễ ô nhiễm môi trtường thì được tiêu thụ ở Việt Nam, trong khi tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn sạch ở Việt Nam chưa chặt chẽ.
- Hiện nay Bộ Khoa học và Công nghệ có:
+ Thông báo số 2035/BKHCN-KHTC ngày 25/8/2011 về việc Trung Quốc công bố loại bỏ 2.255 doanh nghiệp lạc hậu. Theo đó những hệ thống thiết bị này có khả năng nhập vào VN trong đó có Hải Phòng.
+ Văn bản số 2527/BKHCN ngày 06/9/2012 Thông báo về việc tạm ngừng nhập khẩu máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng. Theo đó, tạm ngừng nhập khẩu máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ đã qua sử dụng mà cơ quan có thẩm quyền của Trung Quốc đã công bố loại bỏ.
(Ks. Nguyễn Sơn Thủy - Trưởng phòng P.QLCN - Sở KH&CN thành phố Hải Phòng)