Các vấn đề pháp lý khi doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử tại Việt Nam
25/04/2015
753 Lượt xem
Thương mại điện tử (TMĐT) đã, đang và sẽ làm thay đổi cách thức kinh doanh, phương thức giao dịch và mang lại những tích cực cho mọi mặt của cuộc sống. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của internet và đặc biệt là sự bùng nổ của mạng xã hội trong những năm vừa qua đã làm cho TMĐT trên toàn thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng phát triển nhanh chóng hơn, đa dạng hơn, sâu hơn và cả rộng hơn.
Để TMĐT phát triển một cách lành mạnh, phát huy được những ưu thế mà nó mang lại cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung, qua kinh nghiệm thực tế của thế giới cho thấy vai trò của nhà nước hết sức quan trọng thể hiện qua hai lĩnh vực chính đó là: Xây dựng hệ thống pháp lý đầy đủ, thống nhất và cụ thể để có thể kịp thời điều chỉnh các quan hệ TMĐT; cung ứng dịch vụ điện tử.
Cơ sở pháp lý hoạt động TMĐT ở Việt Nam lần đầu tiên ra đời cuối năm 2005, đó là “Luật Giao dịch điện tử” và năm 2006 ra đời Nghị định hướng dẫn thi hành luật này. Suốt từ đó đến nay Chính Phủ và các Bộ ban hành thêm một số Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành một số nội dung của Nghị định cũng như việc xử lý những vi phạm trong lĩnh vực TMĐT. Và gần đây nhất, Nghị định số 52/2013/NĐ-CP do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành vào ngày 16/5/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2013. Nghị định này quy định về việc phát triển, ứng dụng và quản lý hoạt động TMĐT áp dụng đối với các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TMĐT trên lãnh thổ Việt Nam. Các hình thức tổ chức hoạt động TMĐT được quy định trong Nghị định như sau: Website TMĐT bán hàng là website TMĐT do các thương nhân, tổ chức, cá nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động xúc tiến thương mại, bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của mình. Website cung cấp dịch vụ TMĐT là website TMĐT do thương nhân, tổ chức thiết lập để cung cấp môi trường cho các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác tiến hành hoạt động thương mại. TMĐT hoạt động theo bốn nguyên tắc: Tự do, tự nguyện thỏa thuận trong giao dịch TMĐT; Xác định phạm vi hoạt động kinh doanh trong TMĐT; Xác định nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT; Kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thông qua TMĐT.
Các hành vi bị cấm trong hoạt động TMĐT bao gồm: Vi phạm về hoạt động kinh doanh TMĐT; vi phạm về thông tin trên website TMĐT; vi phạm về giao dịch trên website TMĐT; các vi phạm khác như: đánh cắp, sử dụng, tiết lộ, chuyển nhượng, bán các thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác hoặc thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong TMĐT khi chưa được sự đồng ý của các bên liên quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Giả mạo hoặc sao chép giao diện website TMĐT của thương nhân, tổ chức, cá nhân khác để kiếm lợi hoặc để gây nhầm lẫn, gây mất lòng tin của khách hàng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân đó.
Ngày 20/6/2013, Bộ Công Thương ban hành Thông tư số 12/2013/TT-BCT quy định thủ tục thông báo, đăng ký và công bố thông tin liên quan đến website TMĐT. Thông tư này quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thông báo, đăng ký website TMĐT, đăng ký hoạt động đánh giá tín nhiệm website TMĐT và công bố thông tin trên Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT; áp dụng đối với các thương nhân, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động TMĐT trên lãnh thổ Việt Nam. Theo đó, đối tượng đăng ký là thương nhân hoặc tổ chức hoạt động trong lĩnh vực xúc tiến thương mại hoặc hỗ trợ doanh nghiệp, có website TMĐT trên đó cung cấp ít nhất một trong các dịch vụ sau: sàn giao dịch TMĐT, khuyến mại trực tuyến, đấu giá trực tuyến. Việc tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký website cung cấp dịch vụ TMĐT được Bộ Công Thương thực hiện trực tuyến qua Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT tại địa chỉ www.online.gov.vn... Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7/2013.
Tuy nhiên do sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của TMĐT tại Việt Nam, ngày 05 tháng 12 năm 2014, Bộ Công Thương đã ban hành Thông tư số 47/2014/TT-BCT quy định về quản lý website TMĐT thay thế cho thông tư 12/2013/TT-BCT. Thông tư số 47/2014/TT-BCT bổ sung thêm một số quy định mới như: Tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội: Mạng xã hội có một trong những hình thức hoạt động như cho phép người tham gia được mở các gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ; cho phép người tham gia lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ hoặc website có chuyên mục mua bán cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa, dịch vụ phải tiến hành đăng ký với Bộ Công Thương dưới hình thức sàn giao dịch TMĐT; Thương nhân, tổ chức thiết lập mạng xã hội thực hiện các trách nhiệm của thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ sàn giao dịch TMĐT theo quy định của pháp luật; Người bán trên các mạng xã hội phải tuân thủ những quy định tại Điều 37 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP. Phân định phạm vi quản lý các website chuyên ngành: Không áp dụng đối với các website hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm; website mua bán, trao đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh toán khác; website cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến, dịch vụ đặt cược hoặc trò chơi có thưởng. Những website này chịu sự điều chỉnh của pháp luật quản lý chuyên ngành tương ứng. Quy định về kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện trên website TMĐT: Thương nhân, tổ chức, cá nhân không được sử dụng website TMĐT để kinh doanh các hàng hóa hạn chế kinh doanh sau: súng săn và đạn súng săn, vũ khí thể thao, công cụ hỗ trợ; thực vật, động vật hoang dã quý hiếm, bao gồm cả vật sống và các bộ phận của chúng đã được chế biến; thuốc lá điếu, xì gà và các dạng thuốc là thành phẩm khác và rượu các loại; các loại hàng hóa hạn chế kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó ngày 15/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại. Trong đó, có 5 Điều liên quan đến việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực TMĐT. Cụ thể: Điều 81 (Hành vi vi phạm về thiết lập website TMĐT); Điều 82 (Hành vi vi phạm về thông tin và giao dịch trên website TMĐT); Điều 83 (Hành vi vi phạm về cung cấp dịch vụ TMĐT); Điều 84 (Hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động TMĐT) và Điều 85(Hành vi vi phạm về hoạt động đánh giá, giám sát và chứng thực trong TMĐT). Tùy từng mức độ, các hành vi vi phạm được quy định cụ thể. Ví dụ: Các hành vi như: Lừa đảo khách hàng trên website TMĐT, lợi dụng danh nghĩa hoạt động kinh doanh TMĐT để huy động vốn trái phép từ các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác, lợi dụng TMĐT để kinh doanh hàng giả, hàng hóa, dịch vụ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, lợi dụng hoạt động đánh giá, giám sát và chứng thực trong TMĐT để thu lợi bất chính,… bị mức phạt cao nhất, từ 40 – 50 triệu đồng.
Theo Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2014, sau hơn một năm Nghị định số 52/2013/NĐ-CP có hiệu lực, đã có 7.814 tài khoản doanh nghiệp và 3.418 tài khoản cá nhân được duyệt trên Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT tại địa chỉ online.gov.vn, tăng 5.891 tài khoản doanh nghiệp và 3.113 tài khoản cá nhân so với năm 2013.
Hồ sơ thông báo, đăng ký website TMĐT trên Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT năm 2014 (Theo Báo cáo TMĐT 2014).
Thống kê trên Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT cho thấy, tổng số hồ sơ đăng ký website cung cấp dịch vụ TMĐT được xử lý trong năm 2014 là 1.112 hồ sơ, tăng 768 hồ sơ so với năm 2013; trong đó, số website được Bộ Công Thương xác nhận đăng ký tính đến cuối tháng 12/2014 là 357 website. Trong 357 website cung cấp dịch vụ TMĐT này, có 283 sàn giao dịch TMĐT, 60 website khuyến mại trực tuyến và 14 website đấu giá trực tuyến.
Số lượng hồ sơ thông báo website TMĐT bán hàng được xử lý trong năm ngoái là 9.075 hồ sơ, tăng 8.563 hồ sơ so với năm 2013; trong đó tính đến cuối năm 2014, số website đã được xác nhận thông báo là 5.082 website.
Đáng chú ý, Cục TMĐT và CNTT thuộc Bộ Công Thương cho biết, thông tin phản ánh của người dân tại Cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT năm 2014 tập trung chủ yếu vào hoạt động thiết lập website TMĐT mà không thông báo hoặc đăng ký với Bộ Công Thương, chiếm tới 87% tổng số lỗi vi phạm. 13% còn lại rải rác ở các thông tin phản ánh liên quan đến những lỗi vi phạm như: kinh doanh hàng giả, hàng cấm (3,5%); vi phạm về thông tin trên website TMĐT (4,5%); lợi dụng danh nghĩa hoạt động TMĐT để huy động vốn trái phép từ các thương nhân, tổ chức, cá nhân khác (0,5%)…
Tình hình thực thi pháp luật TMĐT tại TP.HCM và Hà Nội trong năm 2014 (Theo Báo cáo TMĐT 2014)
Trong năm 2014, việc thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm hành chính trong TMĐT đã được đẩy mạnh tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM. Theo thống kê, tổng số vụ việc đã được kiểm tra, xử lý tại hai thành phố lớn này trong năm ngoái là 101 vụ việc, với tổng số tiền phạt vi phạm hành chính xấp xỉ 2 tỷ đồng. Nội dung xử lý chủ yếu là nhóm hành vi vi phạm quy định về thiết lập website TMĐT, theo Điều 81 Nghị định 185/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Có thể thấy sự ra đời của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP, Nghị định 185/2013/NĐ-CP và các thông tư hướng dẫn số 12/2013/TT-BCT và thông tư số 47/2014/TT-BCT đã dần hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động TMĐT tại Việt Nam. Qua đó giúp cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật, tránh được những hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại và mất niềm tin cho người tiêu dùng. Việc hoàn thiện này cũng giúp cho hoạt động TMĐT Việt Nam phát triển một cách vững chắc và có biện pháp răn đe, xử phạt kịp thời các hành vi kinh doanh TMĐT không minh bạch.